Phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia

Đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số để quản trị tốt quốc gia; quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả; tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp… vừa là nội dung rất quan trọng trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030, vừa là xu hướng tất yếu, khách quan đối với mọi quốc gia trên thế giới và Việt Nam.

Quá trình xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số của Việt Nam

Trong những năm qua, vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ điện tử luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của quốc gia. Theo đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản xác định những mục tiêu, nội dung phát triển Chính phủ điện tử, đó là Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm 2025; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 phê duyệt, ban hành Chiến lược phát triển Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 và Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030.

Thực hiện các văn bản chỉ đạo nêu trên, các bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực triển khai Chính phủ điện tử, bước đầu đạt được một số kết quả tích cực như: hạ tầng kỹ thuật cơ bản đáp ứng nhu cầu; cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, về đăng ký doanh nghiệp, về bảo hiểm hoàn thành… từng bước được khai thác, sử dụng hiệu quả; việc trao đổi văn bản điện tử đi vào nền nếp; nhiều dịch vụ công được cung cấp trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; xếp hạng quốc gia về Chính phủ điện tử được cải thiện; nhận thức về chuyển đổi số được nâng cao, thể hiện rõ vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội trong và sau đại dịch COVID-19. Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam theo đánh giá của Liên hợp quốc trong 193 quốc gia từ năm 2014 đến năm 2020 tăng 13 bậc, từ xếp hạng thứ 99 lên xếp hạng thứ 86.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số vẫn còn những hạn chế như: hạ tầng kỹ thuật chưa được tối ưu hóa và vận hành chuyên nghiệp, chưa có khả năng linh hoạt đáp ứng yêu cầu mới phát sinh; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước còn hạn chế; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ và tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến thấp; hoạt động của cơ quan nhà nước còn dựa trên giấy tờ theo cách truyền thống; xếp hạng quốc gia về Chính phủ điện tử có cải thiện nhưng mới ở mức trung bình trong khu vực; chuyển đổi số chưa có nhiều kết quả đột phá. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, công tác phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số và kinh phí cho hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, chuyển đổi số chưa thực sự được quan tâm. 

Nguyên nhân chính là do thiếu chiến lược tổng thể; các văn bản đã được ban hành chủ yếu là các nội dung kế hoạch triển khai Chính phủ điện tử trong các giai đoạn. Do đó, khi có chiến lược tổng thể sẽ xác định được tầm nhìn, mục tiêu, trách nhiệm triển khai các nội dung theo một lộ trình, bảo đảm việc triển khai được đồng bộ, kế thừa, kết nối, phát triển cả chiều sâu, chiều rộng. 

Chiến lược phát triển Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 

Trong quá trình nghiên cứu xây dựng, trình Chính phủ xem xét, ban hành Chiến lược phát triển Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức nghiên cứu, đánh giá, tìm hiểu xu thế phát triển Chính phủ số của các quốc gia qua một số nội dung cơ bản sau:

Các mức độ phát triển (có 03 mức), ở mức thứ nhất là Chính phủ điện tử, tập trung vào việc số hóa các nguồn tài nguyên, ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hóa quy trình nghiệp vụ đã có nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tập trung cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Chính phủ số là mức độ thứ hai, là giai đoạn phát triển cao hơn của Chính phủ điện tử, phản ánh mức độ phát triển hơn về chuyển đổi số trong Chính phủ. Ở mức độ này, Chính phủ hoạt động, vận hành, ban hành chính sách, đưa ra quyết định chỉ đạo điều hành và cung cấp các dịch vụ số một cách chủ động theo nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, tối ưu dựa trên năng lực khai thác và phân tích dữ liệu, chú trọng tới cung cấp thêm các dịch vụ mới, sáng tạo dựa trên nhu cầu của người dân, doanh nghiệp. Chính phủ thông minh là mức độ thứ ba, là Chính phủ kiến tạo sự phát triển bền vững, cung cấp các dịch vụ đổi mới, sáng tạo, có tính dự báo trước cho người dân và doanh nghiệp dựa trên các công nghệ số và mô hình cung cấp dịch vụ mới, được tối ưu hóa.

Xu hướng của thế giới: từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các quốc gia tăng cường chuyển đổi hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức lên môi trường số một cách toàn diện. Nhiều nước trên thế giới sớm nhận ra xu hướng này và đã có hành động cụ thể chuyển dịch sang phát triển Chính phủ số bằng cách tuyên bố chiến lược, kế hoạch tổng thể phát triển của quốc gia mình, điển hình như Brunei (tháng 3/2015), Malaysia (tháng 02/2016), Singapore (tháng 6/2018), Australia (tháng 12/2018), Thái Lan (tháng 10/2019), Nhật Bản (tháng 12/2019), Indonesia (tháng 02/2020)… với đặc điểm chung là có thời gian thực hiện là 05 năm hoặc ngắn hơn do ý thức được sự thay đổi nhanh chóng về mặt công nghệ và nhấn mạnh đến khả năng thay đổi, thích ứng linh hoạt.

Nội dung cơ bản của Chiến lược: 1) Phát triển Chính phủ số có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội; 2) Tiên phong phát triển Chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt, để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát triển Chính phủ điện tử vào năm 2021 và hình thành Chính phủ số vào năm 2025; 3) Định hướng mở để người dân, doanh nghiệp và tổ chức khác tham gia một cách phù hợp vào hoạt động của cơ quan nhà nước, tương tác với cơ quan nhà nước để tăng cường tính minh bạch, nâng cao chất lượng dịch vụ, cùng giải quyết vấn đề và tạo ra giá trị cho xã hội; 4) Dữ liệu là tài nguyên mới. Cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu mở phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; 5) Nền tảng là giải pháp đột phá. Kết hợp mô hình tập trung và phân tán, tuân thủ Khung kiến trúc quốc gia và Kiến trúc của các bộ, ngành, địa phương. Phát triển các nền tảng theo hướng cung cấp dịch vụ đồng bộ, thông suốt các cấp hành chính để có thể sử dụng tại mọi nơi. Các nền tảng, ứng dụng và dịch vụ quy mô quốc gia phải được làm trước, làm tốt, làm tập trung; 6) Thị trường trong nước phát triển sản phẩm công nghệ số, từ đó vươn ra khu vực và thế giới. Chính phủ chủ động điều phối, quy hoạch, triển khai các hoạt động mang tính định hướng, kiến tạo thị trường nhằm mục tiêu kép vừa phát triển Chính phủ số, vừa phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam. Doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam làm chủ, phát triển các công nghệ lõi, nền tảng mở phục vụ Chính phủ số, hình thành hệ sinh thái ứng dụng, dịch vụ make in Việt Nam.

Mục tiêu đến năm 2025: cung cấp dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội, trong đó một số chỉ tiêu cơ bản như: 100% thủ tục hành chính (TTHC) đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 100% dịch vụ công trực tuyến được thiết kế, thiết kế lại nhằm tối ưu hóa trải nghiệm người dùng, khi sử dụng được điền sẵn dữ liệu mà người dùng đã cung cấp trước đó theo thỏa thuận, phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ; 100% người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến được định danh và xác thực thông suốt, hợp nhất trên tất cả các hệ thống cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương; tối thiểu 80% hồ sơ TTHC được xử lý hoàn toàn trực tuyến; tối thiểu 90% người dân, doanh nghiệp hài lòng về việc giải quyết TTHC; tối thiểu 20% TTHC của cơ quan nhà nước được cắt giảm.

Huy động rộng rãi sự tham gia của xã hội, với các chỉ tiêu cơ bản: 100% cơ quan nhà nước cấp bộ, tỉnh tham gia mở dữ liệu và cung cấp dữ liệu mở phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tối thiểu 50% dịch vụ công mới của cơ quan nhà nước có sự tham gia cung cấp của doanh nghiệp hoặc tổ chức ngoài nhà nước; 100% cổng dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khả năng tương tác thuận tiện, trực tuyến với cơ quan nhà nước trong các hoạt động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ dựa trên các nền tảng công nghệ số. 

Vận hành tối ưu hoạt động của cơ quan nhà nước, với các chỉ tiêu: 100% cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ 24/7, sẵn sàng phục vụ trực tuyến bất cứ khi nào người dân và doanh nghiệp cần; 100% hoạt động chỉ đạo, điều hành và quản trị nội bộ của cơ quan nhà nước được thực hiện trên nền tảng quản trị tổng thể, thống nhất; 100% văn bản trao đổi giữa các cơ quan nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử, được ký số bởi chữ ký số chuyên dùng, trừ văn bản mật theo quy định của pháp luật; 100% công tác báo cáo được thực hiện trên hệ thống thông tin báo cáo quốc gia; 100% cơ quan nhà nước cấp bộ, tỉnh có nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp tập trung, có ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa hoạt động; tối thiểu 50% hoạt động giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; tối thiểu 70% nội dung chương trình đào tạo, thi tuyển, thi nâng ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp hoặc tương đương được thực hiện trực tuyến; 100% cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng, phổ cập kỹ năng số cơ bản; 50% cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng phân tích, khai thác dữ liệu và công nghệ số.

Giải quyết các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó mục tiêu tập trung giải quyết một số vấn đề lớn như phát triển hạ tầng số cho người dân (mỗi người dân có danh tính số, điện thoại thông minh), bảo đảm quyền riêng tư trên môi trường số, các vấn đề về y tế, sức khỏe người dân; giáo dục, cơ hội học tập suốt đời; nông nghiệp; lao động, việc làm; giao thông vận tải; thương mại…

Mục tiêu thay đổi đột phá thứ hạng quốc gia được Chiến lược xác định là: Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số tổng thể; nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số tham gia điện tử; nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số dữ liệu mở.

Tầm nhìn đến năm 2030: Việt Nam có chỉ số phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số ở mức độ cao trên thế giới, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu theo xếp hạng của Liên hợp quốc; Chính phủ số chuyển đổi cách thức phục vụ người dân, doanh nghiệp và người dân, doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào hoạt động của cơ quan nhà nước để cùng tạo ra giá trị, lợi ích, sự hài lòng, niềm tin và đồng thuận xã hội; Chính phủ số chuyển đổi cách thức tổ chức, vận hành, môi trường làm việc và công cụ làm việc để cán bộ, công chức, viên chức có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình. Đây là những nội dung cốt lõi nhất trong Chiến lược phát triển Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành tại Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021.

Một số giải pháp bảo đảm tính khả thi của Chiến lược phát triển Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030

Một là, cần sự quyết tâm cao, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, tiên phong triển khai công nghệ số, phát triển Chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, sử dụng giải pháp, cách làm mang tính đột phá (như bảo đảm tối thiểu 1% ngân sách nhà nước cho chuyển đổi số, Chính phủ số, chính quyền số; tất các ngành, các cấp xây dựng kế hoạch hành động thực hiện; thay đổi cách làm hệ thống bằng làm nền tảng…).

Hai là, đẩy mạnh, khuyến khích phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam để làm chủ công nghệ, phát triển các công nghệ lõi, nền tảng mở phục vụ Chính phủ số; phát triển sản phẩm công nghệ số make in Viet Nam để vươn ra khu vực và thế giới; bảo đảo an toàn, an ninh thông tin.

Ba là, thay đổi cách làm xây dựng hệ thống, ứng dụng riêng lẻ, phân tán sang làm nền tảng, có tính ưu tiên, tập trung dứt điểm để tạo hiệu ứng lan tỏa; kết hợp mô hình tập trung, phân tán, tuân thủ Khung kiến trúc quốc gia, kiến trúc các bộ, ngành, địa phương.

Bốn là, tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Giao dịch điện tử; Luật Lưu trữ theo hướng tạo thuận lợi phát triển Chính phủ số; ban hành nghị định của Chính phủ về Chính phủ số; phát triển mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối từ Trung ương đến cấp xã; xây dựng nền tảng điện toán đám mây Chính phủ; phát triển nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, nền tảng trao đổi định danh và xác thực điện tử quốc gia, nền tảng ứng dụng trên thiết bị di động cho mọi dịch vụ Chính phủ điện tử, Chính phủ số; hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, coi đây là dữ liệu trụ cột, cốt lõi cần phải hoàn thành, đưa vào khai thác sớm; phát triển các dữ liệu chuyên ngành về tài chính, bảo hiểm, nông nghiệp, giáo dục, y tế, lao động, việc làm và an sinh xã hội…; phát triển, hoàn thiện Cổng Dịch vụ công quốc gia; xây dựng Cổng dữ liệu quốc gia; xây dựng hệ thống họp trực tuyến, hệ thống hỗ trợ làm việc từ xa; xây dựng các hệ thống bảo đảm an toàn, an ninh mạng phục vụ Chính phủ số.

Bên cạnh đó, cần kiện toàn tổ chức, thiết lập mạng lưới chuyên trách từ Trung ương đến địa phương để phục vụ triển khai Chính phủ số và chuyển đổi số; đào tạo, bồi dưỡng kiến trúc Chính phủ số, kỹ năng số trên môi trường số cho cán bộ, công chức, viên chức. Có chính sách ưu đãi, khen thưởng kịp thời các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ, sản phẩm Chính phủ số tốt nhất; nghiên cứu, phát triển và làm chủ công nghệ số; chuẩn hóa, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ; xây dựng công cụ đo lường, giám sát tự động; đánh giá, đo lường hiệu quả các dự án đầu tư; thiết lập cơ chế điều hành, tổ chức thực thi mạnh từ Trung ương đến địa phương./.

 

Nguồn tin: https://tcnn.vn/

LIÊN KẾT WEBSITE

Đánh giá của bạn về cổng thông tin điện tử






Gửi đánh giá Xem kết quả
48 người đang online